Factors Affecting Questioning Acts (in Korean and Vietnamese)

Hoàng Thị Yến1,
1 University of Languages and International Studies, Vietnam National University, Hanoi

Main Article Content

Abstract

The paper analyzes the effects of pragmatics factors to performance of questioning acts based on Korean and Vietnamese dialogue corpus. The analysis results show that:


(1) The explicitness of presuppositions directly influences conversation structures that contain questions and answers.


(2) Linguistic ellipses help perform questioning acts in an economic way and increase speech cohesion but may result in the implicitness of presuppositions and increased pressure on information provision and threaten the face of the interlocutors. Ellipses reduce interrogative components, changes structure (from question to narrative or exclamatory structures), and alters the nature (from direct questioning acts to indirect questioning acts).


(3) The pressure to provide information of different sub-groups of linguistic means to perform questioning acts varies. Pressure on information provision is inversely proportional to levels of respect and directly proportional to face-threatening levels.


(4) The use of honorifics in Korean and Vietnamese languages more or less influences questioning acts.

Article Details

References

[1] Lee Jang Deuk (1992), Nghiên cứu sự biểu đạt ngôn ngữ của hành động hỏi, ĐH tổng hợp Yonsei, Viện sau đại học, luận án. 질문행위의언어적 실현에 관한 연구, 연세대학교 대학원, 국어국문학과. 박사학위논문.
[2] Mai Thị Kiều Phượng, (2007), Phát ngôn chứa hành động hỏi trong giao tiếp mua bán bằng tiếng Việt, luận án tiến sĩ, ĐH Sư phạm thp. Hồ Chí Minh.
[3] Nguyễn Việt Tiến (2002), Hỏi và câu hỏi theo quan điểm ngữ dụng học (trên cứ liệu tiếng Pháp, có so sánh với tiếng Việt), luận án tiến sĩ, ĐHKHXH & NV-ĐHQG HN.
[4] Choi Myung Ok (1976), Nghiên cứu phương pháp thể hiện nghi vấn trong tiếng Hàn hiện đại, Haksulwon, chuyên san KHXH, số 15. 최명옥(1976) 현대국어의 의문법 연구,집,인문사회과학편 15.
[5] Park Jong Gap (1982), Câu nghi vấn và hành động ngôn ngữ gián tiếp, Ngôn ngữ và văn học Youngnam, số 9, tr.55-76. 박종갑 (1982), 의문문과간접 언어행위, 영남어문학, 호, 55-76.
[6] Seo Jung Mok (1987), Nghiên cứu câu hỏi tiếng Hàn, Nxb Tapchulpansa. 서정목 (1987), 국어의문문 연구.
[7] Kim Gil Young và cộng sự, (2003), Ngữ dụng học tiếng Hàn, Nxb Sejong . 김길영 외, 한국어화용론, 세종출판사, 2003.
[8] Phạm Văn Tình (2002), Phép tỉnh lược và ngữ trực thuộc tỉnh lược trong tiếng Việt, Trung tâm KHXH và NVQG, Nxb KHXH.
[9] Nguyễn Văn Khang (1999), Ngôn ngữ học xã hội, những vấn đề cơ bản, Nxb KHXH, 340 tr.
[10] Vũ Thị Thanh Hương (2002), Khái niệm thể diện và ý nghĩa đối với việc nghiên cứu ứng xử ngôn ngữ, Tạp chí Ngôn ngữ, số 1(148), tr.8-14.
[11] Lê Đông (1996), Ngữ nghĩa-ngữ dụng câu hỏi chính danh (trên ngữ liệu tiếng Việt), luận án, ĐHKH XH & NV, ĐHQGHN.
[12] Hoàng Thị Yến (2013), Tiền giả định và vận động hội thoại trong đoạn thoại chứa cặp trao đáp hỏitrả lời tiếng Hàn, Nhân lực KHXH, số 4(5) 2013, tr 68-75.
[13] Hoàng Thị Yến (2013), Hiện tượng tỉnh lược trong biểu thức ngữ vi hỏi trực tiếp tiếng Hàn, Ngôn ngữ và đời sống, số 5/2013, tr.23-30.
[14] Viện Ngôn ngữ quốc gia Hàn Quốc (2005), Ngữ pháp tiếng Hàn cho người nước ngoài 2 (Dụng pháp), Communication books. 국립국어원 지음, 외국인을 위한 한국어 문법 2 (용법편), 커뮤니케이션 북스, 906 tr.
[15] Đỗ Hữu Châu (2005), Đỗ Hữu Châu tuyển tập, tập 2: Đại cương-Ngữ dụng học-Ngữ pháp văn bản, Nxb Giáo dục, 927 tr.